Sự kiện này trong một thời gian dài ít được nói đến, và ngược lại, vào thời kì “Cải tổ” ở Liên Xô, nó lại được các lực lượng “dân chủ” hăng hái sử dụng như một cớ để bài xích Đảng Cộng sản Liên Xô và dấy lên các hoạt động bài Xô. Vậy thực chất vấn đề này như thế nào?
Biểu tượng chữ Vạn trên cờ phát xít Đức và chữ Vạn trong Phật giáo
Nói đến chủ nghĩa phát xít nói chung và phát xít Đức nói riêng thì cờ phát xít là điều nhất định phải bàn tới. Cờ phát xít Đức có một chữ thập ngược (chữ Vạn) in ở giữa. Ngày nay, có nhiều người thắc mắc về sự giống nhau giữa chữ Vạn trên cờ phát xít Đức và chữ Vạn trong Phật giáo bởi về hình thức thì chúng hoàn toàn giống nhau. Trên phương diện lịch sử, chữ thập ngoặc này đều có nguồn gốc từ Swastika của người Aryan nhưng giá trị tinh thần của chúng thì hoàn toàn khác biệt.
Thật khó có thể so sánh chữ Vạn trong Phật giáo với chữ Vạn trong cờ Đức quốc xã bởi một bên là “trời cao” còn một bên là “vực thẳm”. Thực tế hai biểu tượng này chỉ giống nhau về cách thức còn ý nghĩa tinh thần lại hoàn toàn không có sự liên quan.
Xem thêm : Du học nghề Đức – cơ hội du học miễn phí được trả lương
Lời bài Quốc ca Đức – “ Das Lied der Deutschen” (bằng tiếng Đức và tiếng Anh)
(Lưu ý; khổ thơ cuối cùng là quốc ca chính thức của Đức. Hai khổ thơ đầu tiên không còn được coi là một phần của quốc ca)
Deutschland, Deutschland über alles, Über alles in der Welt, Wenn es stets zu Schutz und Trutze Brüderlich zusammenhält. Von der Maas bis an die Memel, Von der Etsch bis an den Belt, Deutschland, Deutschland über alles, Über alles in der Welt! Deutschland, Deutschland über alles, Über alles in der Welt!
(Nước Đức, nước Đức trên tất cả Trên tất cả mọi thứ trên thế giới! Khi nói đến việc bảo vệ và phòng thủ, Sự đoàn kết của chúng ta đoàn kết chúng ta. Từ Maas đến Memel Từ Etsch đến Vành đai, nước Đức, nước Đức trên tất cả mọi thứ trên thế giới! Nước Đức , Đức trên tất cả Trên mọi thứ trên thế giới!)
Deutsche Frauen, deutsche Treue, Deutscher Wein und deutscher Sang Sollen in der Welt behalten Ihren alten schönen Klang, Uns zu edler Tat begeistern Unser ganzes Leben lang – Deutsche Frauen, deutsche Treue, Deutscher Wein und deutscher Sang! Deutsche Frauen, deutsche Treue, Deutscher Wein und deutscher Sang!
(Những người vợ Đức và lòng chung thủy, rượu vang và giai điệu Đức Tất cả sẽ trường tồn trong thế giới. Giai điệu công bằng và cổ xưa của họ, Vang vọng trong chúng ta mục tiêu cao cả của chúng ta Trong suốt cuộc đời của chúng ta. Phụ nữ Đức, sự chân thật của Đức. Bia Đức , và dàn đồng ca Đức! Phụ nữ Đức, Đức sự thật bia Đức, và điệp khúc Đức!)
Einigkeit und Recht und Freiheit Für das deutsche Vaterland! Danach lasst uns alle streben Brüderlich mit Herz und Hand! Einigkeit und Recht und Freiheit Sind des Glückes Unterpfand – Blüh’ im Glanzedieses Glückes, Blühe, deutsches Vaterland! Blüh’ im Glanze diees Glückes, Blühe, deutsches Vaterland!
(Đoàn kết, công bằng và tự do Vì Tổ quốc! Tất cả chúng ta hãy phấn đấu Vì điều đó Trong tình anh em bằng trái tim và bàn tay! Đoàn kết, công bằng và tự do Là nền tảng của hạnh phúc; Nở hoa trong ánh hào quang của hạnh phúc này, Tỏa sáng, ‘Hỡi Tổ quốc! Hãy nở hoa trong ánh hào quang của hạnh phúc này, Hãy nở hoa, ‘Hỡi Tổ quốc!)
Cờ nước Đức: Màu Sắc, Ý Nghĩ và Lịch sử
Lịch sử Quốc ca Đức: Thông qua, điều chỉnh và bổ sung
Nước Đức chính thức thống nhất thành một quốc gia vào năm 1871, nhưng sẽ không chính thức sử dụng bài hát làm quốc ca Đức cho đến năm 1922, sau khi Chế độ quân chủ Áo bị giải thể, điều này về cơ bản đã giải phóng giai điệu cho người Đức sử dụng.
Mặc dù người ta khuyên chỉ nên sử dụng khổ thơ thứ ba (liên quan đến sự thống nhất, công lý và tự do), toàn bộ bài hát đã được sử dụng làm quốc ca chính thức của Đức để thỏa mãn những người phẫn nộ trước sự mất mát của Đế quốc Đức và những người tin vào chế độ cộng hòa và những ý tưởng tự do đã dẫn đến sự thống nhất của nước Đức trong thế kỷ 19.
Sau khi Đức Quốc xã lên nắm quyền vào năm 1933, bài quốc ca đã được bổ sung để trở thành một “bài quốc ca chung” với “Horst-Wessel-Lied ” hoặc ” Bài hát Horst-Wessel ,” bài quốc ca chính thức của Đảng Quốc xã. Bản đồng ca mới bắt đầu với khổ thơ đầu tiên của “ Das Deutschlandlied” , tiếp theo là sáng tác của Horst Wessel.
Chính sự chuyển thể này là nguyên nhân rất có thể dẫn đến tiếng xấu “ Das Deutschlandlied” đã phải chịu đựng. Vào đầu Thế vận hội năm 1936, trên phông nền của chữ vạn, hàng ngàn người Đức với cánh tay dang rộng đã hét lên “Deutschland, Deutschland über alles” mà mãi mãi đã ràng buộc bài quốc ca vào một ý thức hệ đáng ghét.
Sau thất bại của Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai , “Das Deutschlandlied” đã bị loại bỏ khỏi danh sách quốc ca của cả Đông và Tây Đức trong một thời gian ngắn, được thay thế ở Đông Đức bằng quốc ca mới “Auferstanden aus Ruinen” hoặc “Risen from Ruins“.
Ở Tây Đức “Das Deutschlandlied” một lần nữa được chọn làm quốc ca vào năm 1952, chỉ có khổ thơ thứ ba được chọn làm quốc ca chính thức của Tây Đức.
Lý do bỏ hai khổ thơ đầu tiên khỏi bài quốc ca chính thức chủ yếu là mong muốn thoát khỏi hình ảnh đã nung nấu trong tâm hồn toàn cầu về một nước Đức Quốc xã “trên hết”.
Trong khi hai khổ thơ đầu tiên không được thông qua (cũng không bị đặt ngoài vòng pháp luật, như người ta thường hiểu sai), chúng vẫn là một phần của quốc ca Đức chính thức, nhưng vẫn “không được hát”.
Vào tháng 11 năm 1991, sau sự thống nhất của Đông và Tây Đức vào năm 1990, Tổng thống Richard von Weizsäcker và Thủ tướng Helmut Kohl đã đồng ý rằng chỉ riêng khổ thơ thứ ba sẽ trở thành quốc ca Đức chính thức của Cộng hòa Đức mới của họ, dòng mở đầu “Einigkeit und recht und freiheit ” (“Thống nhất, công lý và tự do”) trở thành một phương châm quốc gia không chính thức nhưng được ca ngợi.
Lịch sử của biểu tượng chữ thập ngoặc trên cờ Đức quốc xã
Biểu tượng chữ thập ngoặc hay chữ Vạn trên cờ Đức quốc xã là hình chữ thập với bốn đầu mút gập vuông góc về cùng một hướng. Biểu tượng này được người phương Tây gọi là Swastika. Hitler đã sử dụng Swastika làm biểu tượng cho Đức quốc xã và gắn lên cờ của đất nước này. Swastika là biểu tượng cổ xưa nhất mà loài người đã sử dụng cách đây hơn 3000 năm. Swastika được phát hiện trên những di chỉ khảo cổ tại vùng Lưỡng Hà, Ấn Hằng, sau đó xuất hiện ở hầu khắp các lục địa Á, Âu, Mỹ. Bằng chứng là Swastika xuất hiện trong nghệ thuật của người Hindu, trong kinh phật và tiếng Hán. Với lộ trình “di cư” như vậy, Swastika được gọi với nhiều tên khác nhau nhưng phần lớn các nơi vẫn giữ đúng cái tên Swastika như ban đầu. Các nghiên cứu khảo cổ đã chỉ ra rằng chủ nhân của biểu tượng Swastika là người Aryan sinh sống trên vùng cao nguyên Iran ở Nam Á cách đây hàng triệu năm. Người Aryan lai tỏa đi khắp nơi, lai tạp với cư dân bản địa để dần trở thành người phương Tây như ngày nay. Huyền thoại về người Aryan khiến người theo chủ nghĩa dân tộc ở châu Âu thời bấy giờ phải đem lòng ngưỡng mộ, trong đó có Adolf Hitler. Ông cho rằng người Aryan là chủng tộc thượng đẳng và đã lấy Swastika của người Aryan làm làm biểu tượng của cờ Đức quốc xã.
Sự hình thành cờ phát xít Đức
Sau khi trở thành người thống trị của Đảng quốc xã, Hitler luôn đau đáu ý định phải tìm kiếm một lá cờ với biểu tượng thích hợp để thể hiện rõ những gì mà Đảng muốn phát huy và nhằm mục đích kích thích óc tưởng tượng cũng như sự chiến đấu của quần chúng. Khi đó, rất nhiều người đã đề xuất với ông về các mẫu thiết kế. Trong số các mẫu thiết kế mà đảng viên đề xuất, ông có nhận thấy hình chữ thập ngoặc. Hitler đã tạo nên một lá cờ có nền màu đỏ, ở giữa có hình tròn màu trắng tương đối lớn, bên trong có in chữ thập ngoặc là biểu tượng Swastika của người Aryan – chủng tộc mà ông cho là thượng đẳng và có quyền lực tối cao. Thế nhưng dưới con mắt của nhân dân toàn thế giới, vòng tròn màu trắng có in hình chữ thập ngược màu đen hơi nghiêng về một phía lại tượng trưng cho sự tăm tối, chết chóc và những gì tang thương nhất. Lý giải vì sao biểu tượng chữ thập ngoặc trong cờ của phát xít Đức dưới thời Hitler lại có màu trắng và đen, sở dĩ màu đỏ và vàng của nền Cộng hòa thời đó bị nhiều người Đức có ác cảm. Hình chữ thập ngoặc cũng như lá cờ của phát xít Đức đã thể hiện sức mạnh huyền bí, có sức lôi kéo quần chúng mạnh mẽ và cũng thể hiện một phần nghệ thuật tuyền truyền của Đảng quốc xã lúc bây giờ mà không phải đảng phái nào ở Đức cũng làm được. Hy vọng những thông tin về cờ phát xít Đức trên sẽ giúp bạn có thêm kiến thức về chủ nghĩa độc tàn Hitler cũng như về lá cờ dưới thời ông trùm phát xít này thống trị.
Tìm hiểu thêm một số thông tin khác liên quan tại https://avt.edu.vn/nuoc-duc/thu-tuc
Quốc ca Đức có tên là “Das Deutschlandlied” hay “Bài ca nước Đức”, được sử dụng toàn bộ và một phần làm quốc ca chính thức của Đức từ năm 1922-1945 và 1952 đến nay.
Bản thân quốc ca Đức không được tạo ra trong một lần, mà nó được ghép lại với nhau, cắt nhỏ và thay đổi trong suốt 200 năm. Được tạo ra vào cuối Thế kỷ 18 để hưởng ứng trực tiếp bài hát “God Save the King ” của Vương quốc Anh, vào thời điểm mà khái niệm “quốc ca” đang được chú ý, lịch sử của Das Deutschlandlied ít nhất phải nói là phức tạp.
Giai điệu được sáng tác vào năm 1797 bởi nhà soạn nhạc cổ điển nổi tiếng người Áo Joseph Haydn, một người cùng thời với Mozart, Beethoven và là anh trai của nhà soạn nhạc được đánh giá thấp hơn một chút Michael Haydn.
Vào thời điểm sáng tác giai điệu, Joseph Haydn được ca ngợi rộng rãi là nhà soạn nhạc giỏi nhất ở châu Âu (và sau đó là trên thế giới), với phần lớn sự nghiệp của ông là “Nhà soạn nhạc của triều đình”, viết nhạc cho các vị vua và hoàng gia khác.
Đóng góp to lớn của ông cho âm nhạc nói chung, đến nỗi Haydn thường được gọi là “Cha đẻ của nhạc giao hưởng”.
Giai điệu mà Haydn viết mà cuối cùng sẽ trở thành giai điệu cho quốc ca Đức, là một phần trong nỗ lực hợp tác để đi kèm với bài thơ chúc mừng sinh nhật “ Gott erhalte Franz den Kaiser” (“Chúa cứu Hoàng đế Francis”), được viết bởi Lorenz Leopold Haschka, (phản ánh quốc ca Anh được thông qua năm 1745) như một món quà dành cho Hoàng đế Áo Francis II, sau đó là Hoàng đế La Mã Thần thánh (cuối cùng).
Nỗ lực chung giữa Haydn và Haschka đã được tất cả mọi người đón nhận nồng nhiệt và trở thành quốc ca trên thực tế của Áo , được cập nhật lời bài hát vào năm 1826 và 1854, trước khi nó kết thúc với tư cách là quốc ca chính thức với sự sụp đổ của chế độ quân chủ Áo vào năm 1918 .
Theo tất cả các tài khoản, Haydn tự hào về bài quốc ca sôi động mà ông đã tạo ra và giai điệu này rất phổ biến trong thế giới nói tiếng Đức.
Bản thân giai điệu này được gọi là “Bài thánh ca của Hoàng đế ” và kể từ đó đã được sử dụng làm giai điệu cho một số bài thánh ca và là nguồn cảm hứng cho nhiều người cùng thời với Haydn, củng cố thêm di sản của ông.
Chính sự phổ biến và quen thuộc này trong cộng đồng nói tiếng Đức đã có khả năng thu hút sự chú ý của một August Heinrich Hoffman von Fallersleben (phew!) đối với giai điệu này, như một phương tiện cho bài thơ yêu nước của ông.
Hoffman là một nhà thơ cách mạng từ Lower Sachsen , và là một trong hàng triệu người phản đối việc tái khẳng định sự kìm kẹp của Đế chế La Mã Thần thánh đối với các quốc gia nói tiếng Đức ở châu Âu, sau Cách mạng Pháp và sự thất bại của Napoléon.
Trong khi hầu hết các quốc gia Đức chùn bước trước ý tưởng cách mạng và đứng về phía người Pháp trong Chiến tranh Napoléon, nhiều lý tưởng của cuộc cách mạng Pháp (chẳng hạn như chấm dứt chế độ phong kiến, tôn trọng khoa học hơn tôn giáo và tự do cho tất cả mọi người) đã thấm vào người châu Âu và chắc chắn sẽ dẫn đến những cải cách xã hội lớn trên toàn bộ lục địa, bao gồm đáng chú ý nhất và do đó là sự thống nhất của một quốc gia Đức vào năm 1871.
Đế chế La Mã thần thánh, được coi là hậu duệ trực tiếp của Đế chế La Mã thực sự, là một liên minh rộng lớn, phức tạp của hàng trăm quốc gia quân chủ, lớn và nhỏ của các dân tộc chủ yếu nói tiếng Đức. Đế chế được kiểm soát lỏng lẻo bởi ngai vàng ở Vienna và bị sa lầy trong một chế độ nông nô phong kiến chỉ mang lại lợi ích cho giới quý tộc.
Các hệ thống này đã bị thách thức với buổi bình minh của Cách mạng Công nghiệp, khi các quốc gia trên khắp Đế chế La Mã Thần thánh bắt đầu hiện đại hóa, nâng một số ít tầng lớp lao động lên “tầng lớp trung lưu” mới và khiến nhiều người trở nên lỗi thời.
Đến những năm 1840, phần lớn các tầng lớp lao động vẫn tồn tại trong điều kiện tồi tệ, gắn liền với mảnh đất mà họ sinh sống và về cơ bản được coi là tài sản của địa chủ.
Tầng lớp trung lưu đang phát triển nhanh chóng, sinh ra từ nhu cầu về công nhân lành nghề và có học thức cho ngành công nghiệp, hầu như không được đối xử tốt hơn, và với gánh nặng giáo dục của họ, họ hiểu rõ hơn về việc họ bị “những người tốt hơn” ngược đãi như thế nào; những người giàu có và quý tộc, những người làm giàu cho mình từ những nỗ lực của tầng lớp lao động và trung lưu.
Trong khi những nỗ lực để kết hợp rất nhiều bang của Đức bắt đầu vào năm 1815 với Liên bang Đức, thì đến năm 1841 đã đạt được rất ít tiến bộ thực sự và phần lớn dân chúng (ngoài giới quý tộc) vẫn kêu gọi rời bỏ các hệ thống phong kiến chiếm ưu thế.
Là một nhà cách mạng thống nhất, mong muốn của Hoffman, giống như nhiều người khác, là nhìn thấy một quốc gia để tất cả người Đức tự hào, hứa hẹn sự thống nhất, công lý và tự do, nhưng sẽ sẵn sàng bảo vệ danh dự của mình, trong một sự pha trộn kỳ lạ của chống đối. – chủ nghĩa tự do quân chủ và chủ nghĩa dân tộc.
Chính tại đây vào năm 1841, Hoffman khi đi nghỉ ở Heligoland, đã viết lời cho bài hát sẽ trở thành quốc ca Đức. Ghép lời bài hát của anh ấy với giai điệu nổi tiếng của Haydn, “The Song of Germany” đã trở thành một bản hit ngay lập tức đối với những người mong muốn nhìn thấy một nước Đức thống nhất, công bằng hơn.
Thông điệp rất đơn giản; Người Đức nên mong muốn và trung thành với một nước Đức thống nhất, trước khi trung thành với bất kỳ thực thể nào khác, ca ngợi những gì đã làm cho nước Đức trở nên vĩ đại, và kêu gọi sự thống nhất, công lý, tự do và hạnh phúc cho tất cả người Đức, không chỉ những người nắm giữ danh hiệu và đất đai.
Thật không may cho Hoffman, ý tưởng trung thành với nhà nước lớn hơn, trái ngược với lòng trung thành với Hoàng tử, Vua hoặc Hoàng đế đang cầm quyền của một người, bị nhiều quốc gia Đức coi là phản quốc, và Hoffman buộc phải lẩn trốn trong 7 năm.
Đáng buồn thay cho Hoffman, đấu đá nội bộ giữa những người theo chủ nghĩa tự do và cộng hòa đã khiến phe quân chủ dễ dàng phá vỡ phong trào hơn, và giấc mơ về một nước cộng hòa Đức của ông sẽ phải chờ đợi.
Tuy nhiên, bài quốc ca của ông tiếp tục trở nên phổ biến, trở thành lời kêu gọi tập hợp những người theo chủ nghĩa cộng hòa và tự do trong Cách mạng Đức 1848-1849, và sẽ vẫn là một yếu tố yêu nước của người Đức trong thế kỷ tiếp theo.