Tỉ Lệ Già Hóa Dân Số Ở Nhật Bản

Tỉ Lệ Già Hóa Dân Số Ở Nhật Bản

Theo dữ liệu từ Chính phủ Nhật Bản, số ca mới sinh đã giảm năm thứ tám liên tiếp vào năm 2023, đạt mức thấp kỷ lục và giảm 5,1% so với năm trước.

Ảnh hưởng của già hóa dân số ở Nhật:

Hiện tượng già hóa dân số đang gây ra những vấn đề lớn về tăng trưởng kinh tế và chế độ phúc lợi xã hội.

Về tăng trưởng kinh tế, lực lượng lao động giảm do sự gia tăng của già hóa và giảm tỉ lệ sinh. Điều này dẫn tới sự trì trệ của tăng trưởng kinh tế.

Về chế độ phúc lợi xã hội, các chế độ như tiền lương hưu hay điều dưỡng chịu sự tác động của lực lượng lao động. Dân số lao động giảm, số lượng người già tăng, kết quả là tỉ lệ phần trăm số người lao động trong tổng dân số giảm. Số người chăm sóc cho một người cao tuổi cũng giảm, dẫn tới sự sụp đổ trong những phúc lợi xã hội liên quan tới y tế và điều dưỡng.

Các vấn đề này có thể được giải quyết bằng các giải pháp như mở cửa để các bạn đi du học và xuất khẩu lao động Nhật Bản với thị trường Việt Nam nhiều hơn.

Khí hậu của Nhật Bản và ảnh hưởng đến đời sống và kinh tế:

Nhật Bản là một quốc gia có khí hậu đa dạng với nhiều quần đảo trải dài, từ vùng bắc đến vùng nam. Điều này dẫn đến sự phân hóa về khí hậu giữa các vùng miền trong đất nước này.

Ở phía bắc, khí hậu của Nhật Bản thuộc dạng ôn đới với mùa đông kéo dài và có tuyết rơi. Vì vậy, ở các vùng miền bắc Nhật Bản, người dân phải đối mặt với những khó khăn về đi lại, điều hòa không khí và cung cấp năng lượng trong mùa đông.

Trong khi đó, ở phía nam của Nhật Bản, khí hậu cận nhiệt và ẩm ướt hơn, thường có mưa to và bão. Điều này có ảnh hưởng đến việc sản xuất nông nghiệp và kinh tế của Nhật Bản. Ví dụ, cơn bão Jebi năm 2018 là một trong những cơn bão nhiệt đới mạnh nhất đã đổ bộ vào Nhật Bản, gây ra thiệt hại nặng nề ở vùng Kansai và gây khó khăn cho đời sống người dân.

Tuy nhiên, khí hậu phân hóa cũng đã tạo ra sự đa dạng trong cơ cấu cây trồng và vật nuôi, đóng góp cho việc phát triển ngành nông nghiệp tại Nhật Bản. Khí hậu của Nhật Bản cũng ảnh hưởng đến các hoạt động khác như du lịch và giao thông vận tải.

Việc ứng phó với khí hậu đang trở thành một trong những vấn đề cấp bách nhất trên thế giới. Khí hậu ảnh hưởng đến đời sống của con người, động thực vật, động vật và môi trường tự nhiên. Tại Nhật Bản, chính phủ đang dành sự quan tâm đặc biệt đến việc giảm thiểu tác động của khí hậu đến đời sống và kinh tế.

Nhật Bản đã đưa ra những biện pháp nhằm giảm thiểu tác động của khí hậu, bao gồm phát triển năng lượng tái tạo và giảm thiểu khí thải. Ngoài ra, Nhật Bản còn đầu tư vào các công nghệ tiên tiến để giảm thiểu tác động của khí hậu đến đời sống và kinh tế.

Tuy nhiên, để đạt được một kết quả tốt hơn, không chỉ chính phủ mà cả cộng đồng mỗi người dân Nhật Bản đều cần phải tham gia vào việc giảm thiểu tác động của khí hậu. Một số hành động như tiết kiệm năng lượng, sử dụng phương tiện giao thông công cộng hay các sản phẩm tái chế cũng sẽ giúp giảm thiểu tác động của khí hậu.

Việc nghiên cứu và quản lý khí hậu cũng là rất quan trọng để bảo vệ đời sống của người dân và phát triển kinh tế bền vững tại Nhật Bản. Chính phủ Nhật Bản đang đầu tư vào nghiên cứu về khí hậu và đưa ra các chính sách nhằm giảm thiểu tác động của khí hậu.

Với sự phát triển nhanh chóng của kinh tế và công nghệ, việc giảm thiểu tác động của khí hậu đến đời sống và kinh tế ngày càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Nhật Bản đang dẫn đầu trong việc ứng phó với khí hậu và sử dụng công nghệ tiên tiến để giảm thiểu tác động của khí hậu đến đời sống và kinh tế.

(ĐCSVN) - Nhật Bản là một trong những quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất trên thế giới. Điều này đồng nghĩa với việc thiếu hụt nguồn nhân lực trong khi lực lượng lao động sẽ phải gồng mình để gánh vác hệ thống thuế và an sinh xã hội.

Khi xã hội đang nhanh chóng “già” đi...

Số liệu được Bộ Thông tin và Nội vụ Nhật Bản đưa ra ngày 17/4 cho thấy, tổng dân số Nhật Bản tính đến ngày 1/10/2011 (bao gồm cả người nước ngoài) là 127,799 triệu người, giảm 0,2% so với một năm trước đó. Với mức suy giảm 259 nghìn người trong năm 2011, đây là mức suy giảm lớn nhất của dân số Nhật Bản kể từ năm 1950 trở lại đây.

Số người già từ 65 tuổi trở lên ở Nhật Bản sẽ chiếm gần 40% tổng dân số vào năm 2060                                                                                                     Ảnh: Foreign PolicyTheo ước tính, số người già từ 65 tuổi trở lên ở Nhật Bản sẽ chiếm gần 40% tổng dân số vào năm 2060, tăng từ mức 23% vào năm 2010. Đây là một con số thực sự ấn tượng về tình trạng “già hóa” ở đất nước Mặt trời mọc.

Số người già từ 65 tuổi trở lên ở Nhật Bản sẽ chiếm gần 40% tổng dân số vào năm 2060                                                                                                     Ảnh: Foreign Policy

Trong năm tài chính kết thúc vào ngày 31/3, những người già Nhật Bản đã chi tiêu khoảng 109 nghìn tỷ yên (tương đương 1,4 nghìn tỷ USD), bằng với 44% tổng tiêu dùng nước này. Một thống kê khác cho thấy, năm 2011, lần đầu tiên số lượng tã giấy người lớn mà công ty Unicharm Corp bán ra ở Nhật Bản đã vượt quá số lượng tã trẻ em. Tại nhiều siêu thị, khách hàng có thể cảm nhận rõ ràng sự già hóa dân số của Nhật Bản: các xe đẩy hàng được thiết kế có trọng lượng nhẹ hơn.

Thực tế tại Nhật Bản cho thấy, các công ty đang chạy đua để tạo ra doanh số lớn hơn từ người tiêu dùng hơn 60 tuổi. Và Nhật Bản đang trở thành hình mẫu cho xu hướng một nền kinh tế bán lẻ hiện đại chuyển dịch từ các khách hàng truyền thống là người trẻ sang người già.

Nhật Bản dự báo, dân số nước này sẽ giảm đi 30% vào năm 2060 nếu tỷ lệ sinh không tăng. Tính đến năm 2010, dân số Nhật Bản là 128 triệu người. Vào năm 2060, dân số Nhật Bản dự kiến sẽ chỉ còn 87 triệu người. Trong đó, số người trong lực lượng lao động (trong độ tuổi từ 15 đến 65) sẽ giảm, chiếm khoảng một nửa tổng dân số.

Tỷ lệ sinh con ở phụ nữ tính vào năm 2060 là 1,35 (số con được sinh ra bởi mỗi phụ nữ) giảm so với mức 1,39 năm 2010. Các con số này đều thấp hơn mức 2 con được sinh ra bởi mỗi phụ nữ để tránh suy giảm dân số.

Các chuyên gia cho biết, dân số Nhật Bản sẽ giảm đi khoảng 1 triệu người mỗi năm trong vài thập kỷ tới và nước này cần xem xét lại hệ thống thuế và các chính sách phúc lợi xã hội để đảm bảo an sinh xã hội.

Dân số Nhật Bản giảm trong những năm gần đây do nhiều người trẻ không muốn lập gia đình vì xem đó là gánh nặng đối với cuộc sống và sự nghiệp của họ. Nền kinh tế trì trệ cũng khiến các cặp vợ chồng trẻ không muốn sinh con.

Từ những điều trên có thể thấy, Nhật Bản là một trong những quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất trên thế giới và tỷ lệ sinh ở mức thấp nhất.

Dân số già - gánh nặng cho nền kinh tế

Trong bối cảnh số người nghỉ hưu và người già ngày một tăng cao, Chính phủ của Thủ tướng Nhật Bản Yoshihiko Noda tháng 2 vừa qua đã thông qua đề cương cải cách chế độ an sinh xã hội và thuế nhằm dọn đường cho việc đạt mục tiêu chính sách tăng thuế tiêu dùng.

Người già Nhật Bản đã chi tiêu một khoản tiền bằng 44% tổng tiêu dùng cả nước                                                                                       Ảnh: AFP/Getty ImagesChính phủ và Đảng Dân chủ Nhật Bản (DPJ) cầm quyền đã hoàn tất đề cương vào ngày 6/1 nhằm tăng thuế tiêu dùng từ 5% lên 8% vào tháng 4/2014 và 10% vào tháng 10/2015. Trong đề cương chính sách này, chính phủ và DPJ cũng cam kết giảm 80 ghế nghị sĩ tại Hạ viện và cắt giảm lương của công chức. Điều này thể hiện quyết tâm của Thủ tướng Noda trong bối cảnh nợ công dài hạn tại Nhật Bản đang ở mức rất cao.

Người già Nhật Bản đã chi tiêu một khoản tiền bằng 44% tổng tiêu dùng cả nước                                                                                       Ảnh: AFP/Getty Images

Hiện nay, nước Nhật vẫn còn đủ khả năng tài chính để trả nợ công, nhưng với tình trạng dân số bị lão hóa ngày càng nhanh, từ nay cho đến hai, ba năm nữa thì tình hình sẽ khác.

Dân số Nhật Bản đang già hóa với tốc độ không ngờ. Nếu mọi việc cứ diễn ra như hiện nay thì Nhật Bản khó có thể tránh khỏi vỡ nợ. Đó là nguyên nhân vì sao ông Noda quyết định tăng thuế tiêu dùng lên 8% vào năm 2014 và 10% vào tháng 10/2015.

Đối với người cao tuổi, lương hưu là nguồn thu nhập chính. Số liệu do Viện nghiên cứu Dân số và an sinh xã hội quốc gia Nhật Bản năm 2003 cho thấy: Năm 1985, chi phí an sinh xã hội của Nhật Bản là gần 35.780 tỷ yên, chiếm 13,71% thu nhập quốc dân. Trong đó, chi phí về lương hưu cho người cao tuổi chiếm 6,49%. Năm 1995, chi phí an sinh xã hội tăng lên đạt hơn 64.730 tỷ yên, chiếm 17,09% thu nhập quốc gia, chi phí lương hưu chiếm 8,84% trong chi phí an sinh xã hội, tăng 136% so với năm 1985. Năm 2001, Nhật Bản dành 81.400 tỷ yên cho chi phí an sinh xã hội, chiếm 22% trong thu nhập quốc dân. Chi phí về lương hưu chiếm 11,50% trong chi phí an sinh xã hội, tăng 130% so với năm 1995.

Như vậy, qua việc trợ cấp lương hưu cho người cao tuổi, có thể thấy, Chính phủ Nhật Bản đã làm khá tốt vấn đề an sinh xã hội. Song gánh nặng đối với nền kinh tế Nhật Bản là điều ai cũng có thể nhận thấy, nhất là sau thảm họa động đất sóng thần tháng 3/2011 đã làm thiệt hại nặng nề nền kinh tế nước này.

Và đặt ra nhiều thách thức đối với vấn đề nguồn nhân lực

Các chuyên gia cho biết, dân số Nhật Bản sẽ giảm đi khoảng 1 triệu người mỗi năm trong vài thập kỷ tới và nước này cần xem xét lại hệ thống thuế và các chính sách phúc lợi xã hội để bảo đảm an sinh xã hội. Việc điều chỉnh thị trường lao động như tăng tuổi nghỉ hưu, nhằm tăng số lao động lớn tuổi trong lực lượng lao động cũng có ý nghĩa rất quan trọng trước tình trạng già hóa dân số và lực lượng lao động.

Thiếu hụt nguồn nhân lực là một thách thức lớn đối với nền kinh tế Nhật Bản                                                                                      Ảnh: BloombergDân số già, đồng nghĩa với sự thiếu hụt nguồn nhân lực cho thị trường lao động. Hiện nay, chính sách thu hút lao động nước ngoài đang là một ưu tiên của Nhật Bản. Trong thời gian qua, Nhật Bản đã có nhiều hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực nguồn nhân lực. Điều này đã và đang được phát huy có hiệu quả.

Thiếu hụt nguồn nhân lực là một thách thức lớn đối với nền kinh tế Nhật Bản                                                                                      Ảnh: Bloomberg

Theo tổ chức Hợp tác Đào tạo quốc tế Nhật Bản (JITCO), Nhật Bản đang có nhu cầu cao trong việc tiếp nhận lao động nước ngoài, nhất là ngành nông nghiệp. Sau thảm họa động đất và sóng thần tại Nhật năm 2011, tỷ lệ lao động nông nghiệp của Nhật Bản bị giảm mạnh. Theo đánh giá của JITCO, đây là ngành khá phù hợp với lao động Việt Nam. Số lượng lao động được tuyển sẽ không bị giới hạn mà tùy vào khả năng đàm phán của doanh nghiệp phái cử lao động.

Một số liệu khác cho thấy, 10.000 công nhân xuất khẩu lao động của Việt Nam là con số mà Nhật Bản mong muốn được tiếp nhận hàng năm vì tình trạng thiếu hụt nhân công, đặc biệt trong các lĩnh vực chế biến thủy hải sản và nông nghiệp. Số lao động tại Nhật Bản trong hai lĩnh vực vừa kể giảm sút đáng kể do một số đông công nhân Trung Quốc và Philippines rút về nước sau cuộc khủng hoảng thiên tai động đất-sóng thần tại Nhật hồi tháng 3 năm ngoái.

Trước đây, trong chính sách của mình, Nhật Bản không cho phép tiếp nhận lao động nước ngoài trình độ thấp hoặc không có tay nghề vào làm việc. Đối với lao động nước ngoài có tay nghề, lao động kỹ thuật cao, Chính phủ Nhật Bản khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho họ vào làm việc ở Nhật Bản.

Tuy nhiên, lao động phổ thông (lao động không có tay nghề hoặc tay nghề thấp) nước ngoài có thể vào Nhật Bản làm việc theo chương trình tu nghiệp tại Nhật Bản với thời gian không quá 1 năm. Chương trình này được khởi điểm từ những năm cuối thập kỷ 60 của thế kỷ trước. Đến năm 1992, để bù đắp sự thiếu hụt nguồn nhân lực do dân số già hoá và tỷ lệ sinh thấp, Chính phủ Nhật Bản mở rộng thêm chương trình thực tập kỹ thuật với thời gian tối đa là 2 năm, nâng tổng số thời gian tu nghiệp và thực tập kỹ thuật lên tối đa là 3 năm. Lao động nước ngoài tu nghiệp, làm việc tại Nhật Bản chủ yếu trong lĩnh vực cơ khí, dệt may, chế biến lương thực, xây dựng, chế biến hải sản, nông nghiệp và ngư nghiệp. Mục tiêu chính của chương trình này là nhằm chuyển giao công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực cho các nước đang phát triển.

Những năm gần đây, sự thiếu hụt nhân lực trầm trọng do sự già hoá dân số và tỷ lệ sinh thấp đã khiến số lượng tu nghiệp sinh nước ngoài vào Nhật Bản liên tục tăng lên. Bình quân, mỗi năm Nhật Bản tiếp nhận trên 70.000 người vào làm việc với tư cách tu nghiệp sinh.

Số liệu tính đến hết tháng 10/2008, đã có trên 35.000 tu nghiệp sinh Việt Nam được đưa sang tu nghiệp tại các xí nghiệp vừa và nhỏ của Nhật Bản, chủ yếu trong ngành dệt, may công nghiệp, lắp ráp điện tử, gia công cơ khí, chế biến, xây dựng và thuỷ sản.Như vậy, hợp tác với Việt Nam về phát triển nguồn nhân lực trong thời gian qua được coi là một trong những phương thức hữu hiệu đối với Nhật Bản trong bối cảnh thiếu hụt nhân lực do già hóa dân số. Và trong thời gian tới, hai nước sẽ cùng tiếp tục phát huy điều này để cùng khắc phục những điểm yếu trong thị trường lao động của mỗi nước./.